Sản phẩm nhái hổ phách và cách xác định hổ phách
Nhựa là vật chất làm nhái hổ phách phổ biến nhất. Nhựa có thể được phân biệt với hổ phách tự nhiên một cách rõ ràng. Celluloid là tên thương mại của một loại nhựa nhiệt dẻo với thành phần bao gồm cellulose nitrate và long não. Những vật chất làm nhái hổ phách như celluloid và thủy tinh có thể được phân biệt với hổ phách bởi thực tế là khi cọ xát, các vật chất này phóng điện tích và tỏa ra mùi của long não. Khi celluloid được nhúng trong nước nóng hoặc đun nóng, nó cũng tạo ra mùi long não. Các loại nhựa khác tạo ra mùi khó chịu của acid carbolic và không có khói. Hổ phách được làm nóng sẽ tạo ra khói trắng và mùi như gỗ thông hoặc mùi kẹo ngọt. Nhựa nhanh chóng bị hư tổn khi tiếp xúc với rượu (cồn ethyl 95%), acetone (100%) và ether – ête; khi cạo bằng dao, nó sẽ bong ra. Amber bị hư tổn từ từ bởi rượu và bột hổ phách được tạo ra khi cạo bằng dao (?).
|
Dùng mũi dao, đầu kim hoặc dao cạo cào hổ phách ở một nơi ít bị nhìn thấy. Hổ phách thật sẽ vỡ vụn với những mảnh nhỏ có thể nghiền thành bột. Nhựa sẽ để lại mảnh vụn dạng vỏ bào đàn hồi. Thủy tinh sẽ không bị trầy xước.
|
Hổ phách và nhựa đều ấm khi chạm vào và có thể được phân biệt với thủy tinh, thường mát khi mới chạm vào và có tỉ trọng cao hơn.
Một phương pháp kiểm tra khá tốt để phân tách hổ phách và vật liệu nhái hổ phách là hổ phách sẽ lơ lửng hoặc nổi trong nước biển hoặc nước bão hòa muối (khoảng 2,5 muỗng canh muối bọt trong 1 cốc nước). Vật liệu nhái hổ phách sẽ chìm trong nước muối; nhựa bakelite (polyoxybenzylmethylenglycolanhydride) có tỉ trọng là 1,25 – 1,55 và thủy tinh làm nhái hổ phách sẽ chìm nhanh hơn nữa.
|
Hổ phách thật sẽ nổi lơ lửng, trong khi vật chất giả hổ phách sẽ chìm xuống đáy trong dung dịch nước muối 10%.
|
Amber được phân biệt với nhựa làm giả hổ phách bằng cách kiểm tra điểm nóng (kim nóng được giữ bằng nhíp, kẹp). Khi điểm nóng chạm vào hổ phách cần xác định tại một nơi khuất, khó phát hiện hư tổn, vật liệu sẽ cháy và tỏa ra mùi (nhựa plastic = mùi thuốc sát trùng của long não hoặc acid carbolic, hổ phách = cháy mùi gỗ thông). Điểm nóng sẽ làm cho nhựa chảy dính và để lại vết đen. Phương pháp điểm nóng còn làm cho hổ phách giòn, dễ vỡ và để lại vết lõm (?).
|
Ghim đầu kim nóng vào bề mặt hổ phách, một làn khói trắng với mùi nhựa đặc trưng sẽ xuất hiện. Mùi thơm của nhựa đủ mạnh để biết đó là nhựa thường hay hổ phách thật. Tuy nhiên, các hổ phách khác nhau sẽ có mùi thơm khác nhau. Tất cả các loại hổ phách tái kết cấu sẽ có mùi thơm nhựa cây dễ chịu nhưng hơi chua. Các vật chất tổng hợp sẽ tan chảy nhanh hơn, tạo mùi của hóa chất, khó chịu.
|
Công dụng của hổ phách
Vào những năm 1920, một nửa sản lượng hổ phách đã được chế tác thành các sản phẩm cho người hút thuốc, tẩu thuốc xì gà/thuốc lá, đầu nối ống điếu. Các thành phẩm chính của hổ phách có thể được chia thành bốn loại: đồ trang sức, vật phẩm hút thuốc, tác phẩm nghệ thuật và vật phẩm tôn giáo. Đồ trang sức bao gồm dây chuyền, vòng tay, trâm cài, bông tai, mặt dây chuyền, nhẫn, khuy măng sét, ti ngậm cho trẻ em, …. Các vật phẩm cho người hút thuốc đã được đề cập ở trên. Một cách sử dụng thiết thực khác là những quả bóng hổ phách, được dùng để loại bỏ xơ vải khỏi quần áo vì khả năng tạo ra tĩnh điện bằng cách cọ xát của hổ phách! Các tác phẩm nghệ thuật là các vật phẩm như: đồ chạm khắc, hộp trang sức, chén và bát đĩa, dụng cụ học tập, đồ trang trí, bộ cờ vua, tranh khảm, đèn chùm. Tiêu biểu như con tàu hổ phách và tủ hổ phách tuyệt đẹp. Con tàu hổ phách được chế tác ở Königsberg vào năm 1934, trong khi tủ màu hổ phách được sản xuất tại Königsberg trước năm 1742 và hiện đang được đặt tại Dresden, Đức. Một quả trứng hổ phách trang trí tuyệt đẹp đã được trao cho Gdansk, Ba Lan để vinh danh kỷ niệm 1000 năm của thành phố (!) từ bà Heidrun Mohr-Mayer. Các đối tượng nghệ thuật khác bao gồm các vật phẩm tôn giáo, như: chuỗi tráng hạt của người Công giáo, Hồi giáo và Phật giáo, các hình nhân vật thiêng liêng và bùa hộ mệnh. Hổ phách được sử dụng trong các sản phẩm chăm sóc da và đối với một số người, hổ phách có các công dụng y học và tôn giáo như các bài viết về Hổ phách: Sử dụng trong Y học Trung Quốc, Đặc tính Y học và Tôn giáo, Hổ phách Baltic – Công dụng chữa bệnh; Pháp thuật và Y học.
|
Thuyền buồm bằng hổ phách, kích thước 20cm x 18cm x 9cm, một tác phẩm của thế kỷ 18, trị giá 1.200 USD.
|
Hổ phách và các loại nhựa hóa thạch khác cũng có ứng dụng thực tế khác như chúng được sử dụng trong việc đánh varnish – vecni và sơn mài; và được đốt như nhang trầm. Vào thời cổ đại, mùi hương hổ phách được đánh giá cao trong việc che đậy mùi thức ăn hư hỏng. Nhựa hoặc chất nhựa dính hiện đại (nhựa thông) được sử dụng trong sản xuất sáp nhựa, nhựa thông, kem và dầu cho ngành công nghiệp nước hoa (tỉnh Novgorod, Nga, Bor Experimental and Industrial Chemical Forestry). Véc-ni hổ phách mịn chất lượng cao được sử dụng cho đàn violin.
Hổ phách thậm chí đã được sử dụng làm vật liệu xây dựng. Hổ phách đã tạo ra sự thay đổi diện mạo mới cho nhà thờ St. Brygida, Gdansk, Ba Lan. Tại St. Petersburg, Nga, các bức tường của một căn Phòng bằng hổ phách nổi tiếng (ảnh bên dưới) được lót bằng các chạm khắc phức tạp và thiết kế dát, khảm tinh xảo. Căn phòng trong cung điện này đang được phục dựng lại từ các bức ảnh và có thể được vào tham quan tại Cung điện Catherine, thị trấn Tsarskoye Selo, St. Petersburg.
|
Phòng hổ phách được phục dựng lại, tại Cung điện Catherine,thị trấn Tsarskoye Selo, St. Petersburg. Ảnh của J. và M. Melhorn chụp vào 12/2002.
|
Amber đã được biết đến từ thời tiền sử và các cổ vật thời đồ đá là phổ biến trong các bảo tàng, chẳng hạn như những bảo tàng từ Bảo tàng Quốc gia Đan Mạch nằm ở Copenhagen. Các hạt hổ phách đã được tìm thấy trong những ngôi mộ 4000 năm gần Stonehenge, Anh. Hạt hổ phách (từ Bảo tàng Quốc gia ở Copenhagen, Đan Mạch), bùa hộ mệnh, chạm khắc đều đã được tìm thấy ở các địa điểm khảo cổ trên khắp Bắc Âu và dọc theo vùng đất Địa Trung Hải và Châu Á. Thông tin thêm về việc sử dụng hổ phách và tìm thấy khảo cổ học, cả hai đều được tìm thấy tại Gintaro Galerija Muziejus.
Cách bảo quản hổ phách
Hổ phách đã giữ được vẻ đẹp của nó trong hàng triệu năm và ánh sáng bóng có thể được giữ lại vô thời hạn, nếu một vài biện pháp phòng ngừa hư tổn được thực hiện. Sự mềm mại, dễ vỡ và dễ bị hư hại bởi hóa chất của hổ phách đòi hỏi một số lưu ý đặc biệt trong việc sử dụng và lưu trữ. Không đeo đồ trang sức hổ phách của bạn trước khi sử dụng keo xịt tóc và nước hoa, bởi vì nó có thể sẽ tạo ra một lớp phủ màu trắng trên hổ phách và lớp phủ này có thể lưu lại lâu dài.
Biện pháp bảo quản đầu tiên được thực hiện bởi nơi sản xuất xâu chuỗi hạt bằng sợi chỉ hoặc sợi lanh với các nút thắt giữa mỗi hạt để tránh cọ xát và gây sứt mẻ lẫn nhau. Trang sức hổ phách không nên được cất giữ chung với các vật bằng kim loại có thể cọ xát hoặc các trang sức khác và nên cất giữ nó trong một miếng vải mềm là tốt nhất.
Không bao giờ làm sạch trang sức hổ phách trong máy siêu âm hoặc bằng máy áp lực hơi nước, sẽ làm bể viên đá. Không bao giờ để hổ phách tiếp xúc với các dung dịch đậm đặc, xà phòng, chất tẩy rửa, dung dịch, hóa chất làm sạch trang sức, nước hoa hoặc keo xịt tóc. Tất cả những thứ này có thể làm mờ lớp bóng ngoài cùng viên đá và / hoặc tạo ra một lớp phủ mới, màu trắng. Giữ hổ phách tránh xa các chất thường có trong nhà bếp như mỡ lợn, dầu salad, bơ và nhiệt độ quá cao của lò nướng và bếp nướng.
|
Sử dụng vải mềm và dầu olive đề lau chùi hổ phách. Tránh tiếp xúc với nước hoa, hóa chất, chất tẩy rửa trang sức, ….
|
Bụi và mồ hôi có thể được loại bỏ bằng nước sạch, ấm (không bao giờ sử dụng nước sôi!) và một miếng vải flannel – vải dạ, len mềm. Hổ phách có thể được sấy khô và lau bóng với dầu ô liu tinh khiết, sau đó lau lại bằng vải mềm để loại bỏ dầu dư thừa và khôi phục lại lớp ngoài sáng bóng.
Không đặt các tác phẩm nghệ thuật bằng hổ phách gần ống dẫn nhiệt hoặc dưới ánh nắng mặt trời trực tiếp. Trưng bày trong tủ có đèn chiếu sáng thì phải kèm theo hệ thống thông gió hợp lý. Tránh tiếp xúc với những thay đổi đột ngột của nhiệt độ, chẳng hạn như bồn nước nóng, nước rất lạnh và tiếp cận với lò nướng, thậm chí là bồn rửa với nước lạnh. Hãy nhớ là không bao giờ đeo trang sức giá trị khi làm những việc nặng nhọc, hoạt động chân tay (ví dụ: làm vườn, …).
Những câu chuyện huyền thoại và sự thật về hổ phách
Hổ phách có một nét quyến rũ độc đáo và có nhiều câu chuyện huyền bí xung quanh nó. Hổ phách có thể chứa muỗi và vi khuẩn đã được bảo tồn, nhưng không có chuyện máu khủng long được lưu trữ trong dạ dày của muỗi. Thời gian gần đây hổ phách đã được biết đến nhiều hơn bởi cuốn sách và bộ phim, Công viên kỷ Jura, trong đó có chi tiết là DNA được bảo tồn từ máu khủng long nằm trong xác con muỗi, được sử dụng để tái sinh khủng long. Công nghệ mới đã cho phép trích suất DNA từ động vật và côn trùng bị mắc kẹt trong hổ phách.
Vào tháng 5 năm 1995, nhà vi trùng học Raul Cano tuyên bố ông đã hồi sinh thành công bào tử vi khuẩn từ một con ong dú (ong lỗ) được bảo tồn bên trong hổ phách từ 25 đến 40 triệu năm trước. Hổ phách cung cấp một lớp vỏ yếm khí bảo vệ cả ong và vi khuẩn. Vi khuẩn này tương tự về mặt di truyền với một loại vi khuẩn hiện đại có tên Bacillus sphaericus và trong điều kiện khắc nghiệt, chúng có khả năng ngừng di chuyển, ngừng ăn và sinh sản, để tồn tại mà không cần không khí hoặc nước. Công việc được tiến hành tại Đại học bang Bách khoa California, San Luis Obispo, California, Hoa Kỳ, tại đây đã phân tách được DNA và vi sinh vật cổ đại. Hai bài báo đã được công bố là Đa dạng vi sinh vật bị nhốt trong hổ phách (Greenblatt, CL, Davis, A., Clement, BG, Kitts, CL, Cox, T., và Cano, RJ (1999), tạp chí Sinh thái vi vi sinh vật, Số 38, trang 58 – 68). Và Staphylococcus succinus sp. nov. – một loại tụ cầu khuẩn, bị nhốt trong hổ phách Dominican (Lamber, LH, Cox, T., Mitchell, K., Rossello-Mora, RA, DelCueto, C., Dodge, DE, Orkand, P., và Cano, RJ (1998), tạp chí quốc tế về vi sinh học hệ thống và tiến hóa, Số 48, trang 511 – 518).
|
Hình ảnh vị tiến sĩ và viên hổ phách được cho là chứa DNA khủng long trong thân một con muỗi. (theo giả thuyết của phim Công viên kỷ Jura).
|
Một số nhà khoa học hoài nghi và hỏi liệu các vi khuẩn này là cổ xưa hay chỉ là các sinh vật hiện đại phát triển bằng các thiết bị trong phòng thí nghiệm. Để thiết lập tính xác thực trong khoa học, thì việc tái thực hiện qui trình thí nghiệm hồi sinh vi khuẩn cổ xưa là rất quan trọng. Raul Cano và đồng nghiệp Monica Borucki nhận thức được những lời hoài nghi mà họ có thể gặp phải nên họ đã tái phân tách và phát triển bào tử trong một môi trường vô trùng cao. Nếu những công bố của Cano có thể được chứng minh thì ông sẽ là người đầu tiên hồi sinh cuộc sống từ quá khứ. Liệu nghiên cứu này có bất kỳ giá trị thực tế nào không? Vâng! Kháng sinh chống vi trùng có thể được sàng lọc từ các vi khuẩn và được sử dụng để thay thế các kháng sinh đang trở nên không hiệu quả khi các vi khuẩn gây bệnh phát triển hơn kháng sinh penicillin. Nghiên cứu về sự hồi sinh vi khuẩn cổ đại cũng có thể góp phần tìm hiểu biết về sự tiến hóa.
Hổ phách dùng làm thuốc
Mật ong được trộn với hổ phách dạng bột và được kê toa cho bệnh hen suyễn, bệnh gút và bệnh dịch hạch. Mặt dây chuyền hổ phách được đeo để bảo vệ sự trong trắng, và được sử dụng làm chuỗi tràng hạt hoặc bùa chống lại các thế lực xấu xa và đen tối. Hổ phách bị đốt cháy cùng với các loại nhựa cây chưa hóa thạch, như frankincense – nhũ hương, myrrh – mộc dược và copal để xua tan tà ma và xua đuổi những côn trùng thường gặp như muỗi, …. Các thủy thủ đốt hổ phách trên tàu để xua đuổi rắn biển và những hiểm họa từ biển sâu. Ngày nay hổ phách vẫn được sử dụng làm thuốc! Các sản phẩm dược vẫn được mua gần đây ở Ba Lan.
|
Tinh dầu hổ phách được cho là có tác dụng tốt cho sức khỏe con người.
|
Hổ phách trong văn học
Hổ phách được liệt kê là một trong số các đồ trang trí quý giá khác của Homer trong sử thi Odyssey. Nó được đề cập trong các văn liệu của các nhà khoa học cổ đại như Aristotle, Plato, Theophrastus, Tacitus và Strabo. Pliny the Elder – nhà khoa học thời cổ đại đã viết một chuyên luận lịch sử tự nhiên và giải thích nguồn gốc hổ phách. Các tính chất độc đáo của hổ phách được trình bày trong các luận án khoáng vật học đầu tiên của Al Biruni (972 – 1068), Albertus Magnus (1193 – 1280) và Georgius Agricola (1492 – 1555). Tác phẩm của N. Sendelius, "Historia succinorum corpora aliena involventium" (1742) chứa những mô tả và minh họa tuyệt vời về các tạp chất xác động vật trong bộ sưu tập hoàng gia ở Dresden, thuộc sở hữu của Augustus II the Strong. Đối với một số thần thoại Hy Lạp, Lithuanian và Bắc Âu đều có những câu chuyện liên quan với hổ phách, hãy đọc một số câu chuyện của Bruce Knuth.
Copal: Một loại nhựa chưa hoàn toàn hóa thạch và còn nhiều tranh cãi
Copal không phải là nhựa hóa thạch, nó chưa đủ cứng để được gọi là hổ phách, mà là một loại nhựa chưa trưởng thành, hình thành gần đây. Càng ngày, copal càng được rao bán, thông qua các dịch vụ đấu giá trực tuyến, các hội chợ đá quý và các cửa hàng, chúng được miêu tả sai là "hổ phách".
|
Nhìn dáng vẻ bên ngoài thì copal hoàn toàn giống với hổ phách, nên việc nhầm lẫn là khó tránh khỏi.
|
Giá trị thương mại của hổ phách liên quan đến sự khan hiếm, tuổi hình thành, bao thể là các loài đã tuyệt chủng và độ bền. Thật không may, một số thương nhân lại quan tâm nhiều đến lợi nhuận kinh tế cao, thay vì quan tâm tìm hiểu nhựa của họ có hóa thạch chưa hay chỉ là nhựa mới hình thành gần đây. Diễn đàn về hổ phách đã có cuộc thảo luận tích cực, bắt đầu vào tháng 10 năm 1999, liên quan đến nhựa Colombia, được rao bán là hổ phách tại một trang web đấu giá nổi tiếng. Nhiều trang web về hổ phách, hiện nay vẫn tồn tại, từ thương mại đến giáo dục, nhưng chỉ một số ít trang có thông tin về copal. Nhầm lẫn là không thể tránh khỏi. Thử tìm kiếm nhanh về "copal" trên internet sẽ tìm được một trang web cung cấp hình ảnh về chất Titanic (được cung cấp bởi trang web Copal), được điều hành và sản xuất kinh doanh từ công ty Nidec Copal ở Malaysia và một trang web về các sản phẩm liên quan đến kháng nguyên, miễn dịch?! Để trả lời cho các cuộc thảo luận trên diễn đàn về hổ phách và nhiều câu hỏi qua email, phần bổ sung này vào Thế giới hổ phách sẽ cung cấp một số thông tin và tài liệu tham khảo từ một số chuyên gia về hổ phách liên quan đến định nghĩa của nhựa và đặc biệt là copal, nhựa chưa hóa thạch và những tranh cãi xung quanh nhựa cây.
Patty Rice: "Chất thay thế lâu đời nhất được biết đến với hổ phách là copal, một loại nhựa có vẻ ngoài rất giống hổ phách" (Rice, 1993, trang 219). Thuật ngữ "copal" có nguồn gốc từ "copalli", một từ tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là hương thơm, đó là những gì copal được sử dụng trong vecni – sơn dầu. Rice (1993) cho biết copal có thể xuất hiện ở dạng bán hóa thạch hoặc dạng chất nhựa dính, thường có tuổi hình thành từ 1.000 đến 100 tuổi (trang 220). Copal có thể phát huỳnh quang màu trắng dưới ánh sáng cực tím sóng ngắn (hổ phách thường phát huỳnh quang màu xanh hoặc màu vàng) và nó có chứa các loài thực vật và động vật còn tồn tại (trái ngược với các dạng tuyệt chủng được tìm thấy trong hổ phách). Một thử nghiệm để so sánh copal với hổ phách là bằng cách nhỏ một giọt ether – ete – C4H10O, nó bay hơi nhanh trên hổ phách khiến nó không bị ảnh hưởng, trong khi nó làm cho copal và các loại nhựa hình thành gần đây bị chảy và hơi dính tay (Rice, 1995, trang 141).
|
Một số người dựa vào tuổi và các sinh vật hiện diện bên trong nhựa thơm để xác định là hổ phách hay copal.
|
Rice (1993) phân biệt một số loại copal từ các vùng địa lý và loại cây khác nhau (trang 222 – 230). Copal Zanzibar từ Đông Phi có thể được sản sinh từ Trachylobium verrucasum (còn được gọi là Hymenaea verrucosa), trong khi copal Kauri từ New Zealand được thành tạo bởi thông Kauri, Agathis australis. Copal Sierra Leone và Congo đều hình thành từ cây họ đậu, Copaifera guibourthiana. Copal Manila, được sinh ra từ các cây trong chi Agathis – cây lá kim, được tìm thấy ở Indonesia và Philippines. Nhựa Dammar được sản xuất bởi các cây họ dầu ở miền Nam Châu Á, tức là Malaya và Sumatra (Rice, 1993, trang 230). Nhiều loại cây nhiệt đới khác nhau, chẳng hạn như Hymenaea courbaril hoặc Hymenae protea, hình thành copal Colombia và Brazil (Rice, 1993, trang 227). "Phân tích phóng xạ carbon của một mẫu copal từ Colombia đã chỉ ra rằng nó có tuổi dưới 250 năm" (Rice, 1993, trang 227). (Còn tiếp)
(Lược dịch bài viết của Susie Ward Aber, Đại học Emporia Bang Emporia, Kansas, Hoa Kỳ)