Đá Spinel Hồng Phớt Tím Từ Tajikistan – Trước Và Sau Cắt Mài
Tháng 9 năm 2007, khách hàng thường xuyên từ Pakistan, ông Syed Iftikhar Hussain đã đưa ra một lô đá thô spinel được cho là từ Tajikistan (hình 1, trái), gồm 84 viên với nhiều cấp độ trong tone (tông) màu hồng phớt tím, viên lớn nhất nặng 48,5 g. Có rất ít đặc điểm về spinel Tajik được ghi chép trước đây (xem ví dụ của J. I. Koivula và R. C. Kammerling, “Khảo sát một tinh thể quý spinel từ Pamir Mountains”, trongZeitschrift der Deutschen Gesellschaft, Vol. 38, 1989, trang 85 – 88), đến tháng 11 năm 2008, phòng thí nghiệm Bangkok đã may mắn có được cơ hội nghiên cứu 7 viên đá, trong thời gian ngắn, chúng được khách mài từ lô hàng trên (hình 1, phải).
|
|
Hình 1: Lô đá thô spinel ở hình trái được cho là từ Tajikistan gồm các viên có trọng lượng tối đa là 48,5 g. Bên phải là 7 viên spinel mài giác nặng từ 9,04 – 28,16 ct được tạo thành từ vài mẫu đá thô này. Hình của Ken Scarratt và Kittayachaiwattana.
|
Hầu hết đá thô là các mẫu đã bị gãy, chỉ vài mẫu là còn thấy được tinh thể tám mặt, dạng đặc trưng của spinel. Chúng tôi không thể tiến hành đo chính xác trị số chiết suất RI bởi thiếu các mặt nhẵn nên chúng tôi phải dựa vào các kiểm tra khác. Giá trị cân tỷ trọng SG, vạch phổ xem dưới phổ kế cầm tay, các phản ứng dưới kính phân cực, phát huỳnh quang UV đều phù hợp với spinel. Những khảo sát đó được chứng minh thêm bởi phổ PL (tia laser bước sóng 514 nm được kích hoạt ở nhiệt độ phòng) trên viên đá lớn nhất, viên đá được cho là spinel thiên nhiên. Các bao thể nổi bật nhấtthấy trong các mẫu là các tinh thể euhedral, các bao thể dạng kim và những tinh thể với dải hạt màu trắng dạng đuôi sao chổi “comet tails” (hình 2).
|
Hình 2: Trong số các bao thể được phát hiện trong các viên spinel thô là một tinh thể euhedral sắc nét (phải, phóng đại 75x) và những tinh thể với dải hạt màu trắng dạng đuôi sao chổi (trái, phóng đại 35x). Hình của Ken Scarratt.
|
Sau đó các viên đá thô này được cắt mài, chúng tôi thu thập được các đặc điểm ngọc học cơ bản từ 7 viên đá mài giác ấy. Kết quả khá phù hợp như sau: RI: 1,712 – 1,713; SG: 3,59 – 3,62, phát quang đỏ mạnh dưới UV sóng dài và đỏ yếu đến cam yếu – vừa (vài mẫu có màu phớt lục phấn) dưới UV sóng ngắn; một đoạn vạch phổ tiêu biểu (với vài hấp thu phổ biến trong vùng cam/vàng và một phần ở vùng màu lục) được nhìn thấy dưới phổ kế. Mặc dù chỉ số chiết suất hầu hết là giống với các chỉ số của tinh thể spinel được trình bày bởi Koivula và Kammerling (và một báo cáo về spinel Tajik trong Lab Notes, G&G Spring 1989, trang 39 – 40), nhưng các trị số tỷ trọng SG thì lại hơi khác.
|
Hình 3: Một trong số các viên spinel mài giác có chứa một mặt tinh thể âm (trái, phóng đại 50x) và một nhóm tinh thể euhedral (phải, phóng đại 20x). Hình của Nicholas Sturman.
|
Từ những mẫu đá thô tinh khiết nhất (sạch nhất) được tuyển chọn khá phù hợp cho việc mài giác, do đó không có gì ngạc nhiên khi 6 viên đá mài giác lại có rất ít tạp chất như thế. Viên giọt nước nặng 11,96 ct thấy được hầu hết các đặc trưng bên trong, gồm một tinh thể âm hình tám mặt và vài tinh thể euhedral (hình 3). Các tinh thể âm nhỏ này chỉ là thấy rất mờ trong viên khác. Không may là chưa lần nào các bao thể này được nhận biết trên cả đá thô lẫn đá spinel mài giác bằng phổ kế Raman. Phổ PL trên viên đá mài dạng giọt nước thì khá phù hợp với mẫu đá thô.
(Theo Nicholas Sturman, trong Lab Notes, G&G, Spring 2009)
|